Thứ Năm, 25 tháng 9, 2008

Tranh dân gian Việt Nam

Tranh dân gian Việt Nam

I. Dẫn luận
So với kiến trúc và điêu khắc, hội hoạ tôn giáo và cúng Việt Nam không lưu lại được nhiều tác phẩm. Ngoài một số tranh thờ và chân dung thì di sản tranh truyền thống của dân tộc ta chỉ còn lại những tờ tranh khắc gỗ vui mắt, giản dị và giàu ý tứ. Gọi là tranh dân gian.
Trải qua mấy thế kỷ đã phục vụ nhu cầu thẩm mỹ của đông đảo nhân dân, chứa đựng nhiều nét thông minh, tài hoa và đậm sắc thái dân tộc. Trang dân gian là loại tranh được lưu hành rộng rãi trong dân gian, được nhân dân rất yêu thích, tranh thường dùng vào việc trang trí đón xuân và dùng vào việc thờ cúng.
Trang dân gian Việt nam từ rất xa xưa đã tồn tại thực sự trong đời sống của nhân dân. Đã từ lâu chúng ta đã đo nó bằng 2 chuẩn là: sáng tạo của quần chúng nhân dân và sáng tạo tập thể để rồi từ đó mang tính dị bản. Điều đó luôn được khẳng định trong lĩnh vực văn hoá nhưng trong nghệ thuật tạo hình lại tập trung ở một số trung tâm và gắn với những người "có hoa tay" hay còn gọi là nghệ nhân. và tờ tranh phần nào "định hình" ở ván khắc thì những chuẩn định định tính và định lượng trên cần mở rộng hơn.
Để có bức tranh ra đời, các nghệ nhân thực hiện nhiều công đoạn khác nhau, từ khắc hình trên ván gỗ, in và tô màu từng bước một theo một quá trình công phu. ở Việt Nam cũng như một số khác trên thế giới, chúng ta có thể tìm biết tác giả của một số tờ tranh dân gian, chúng được người bình dân và cả tầng lớp trên của xã hội ưa chuộng là vốn nghệ thuật cổ truyền và cũng là nghệ thuật đương đại.
Việc chơi tranh trong ngày tết và dùng tranh vào việc thờ cúng đã trở thành phong tục rất mực tôn trọng ở Việt nam trước cách mạng tháng 8 – 1945. Thơ văn Việt Nam từ thời Lê Mạc thế kỷ 15 – 16 đã nói đến cung cách ăn Tết Nguyên Đán của người dân chốn Kinh Kỳ, cùng với " thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ - Cây nêu tràng pháo, bánh chưng xanh", tranh tết được treo từ cung vua đến hàng phố. Nhà nhà trong dịp tiết Nguyên Đán, dù khó khăn đến mấy cùng mua vài tờ tranh về treo, trước là để trang hoàng nhà cửa, sau và quan trọng hơn là để trừ tà, thờ cúng tổ tiên, cầu mong những điều tốt đẹp và cùng để giới thiệu cho nhau những giá trị văn hoá và một phần lịch sử dân tộc Việt Nam.
Tranh tết xuất hiện từ lâu đời, phần nào phỏng theo tranh dân gian Trung Hoa xưa, song đã sớm hình thành một dáng vẻ riêng gắn liền với tập quán sinh hoạt văn hoá nghệ thuật của nhân dân ta thời trước. Buổi ban đầu tranh được vẻ hoặc khắc in một màu đơn giản, mang tính chất tín ngưỡng huyền bí. Với quảng đại nhân dân mấy thế kỷ trước, đó là những lá bùa có sức ma thuật, trấn trừ ma quỷ, đem lại may mắn tốt lành cho mọi người, mọi nhà. Sau đó, nội dung và hình thức tranh dần dần biến đổi, mở rộng, không chỉ thoã mãn nhu cầu tín ngưỡng và trang trí trong nhà, mà còn mang tinh thần giáo dục đạo đức, phản ánh những ao ước hạnh phúc đời thường, đáp ứng khát vọng thẩm mỹ chân thực, hồn nhiên mà tinh tế của người dân thuộc mọi tầng lớp. Nhu cầu treo tranh tết vào dịp tết đón xuân từng lên rất cao. Tranh vẽ tay từng đã không đủ đáp ứng, đã thôi thúc các nghệ nhân vẽ tranh, khắc tranh sớm tập hợp thành những phường thợ chuyên sâu để khắc ván và in tranh hàng loạt ngày càng lớn, mà mỗi bản tranh in ra đều mang đầy đủ giá trị như nhau. Nhiều vùng trên đất nước ta, tới tận cố đô nhà Nguyễn, đã từng phát đạt nhờ sản xuất tranh dân gian, có tiếng gần xa như Đông Hồ, ở Kinh Bắc, Hà Tây, Sình ở Huế, Hàng Trống ở Kinh đô Thăng Long..
Vào dịp tết, rất nhiều gia đình Việt Nam còn treo tranh thờ quanh năm theo tín ngường bản địa. Tranh thờ thuộc nhiều chủng loại, giữ một vị thế quan trọng trong các cộng đồng dân cư sùng tín và nhân hậu, luôn luôn hướng thiện..Bởi vậy các cơ sở làm tranh dân gian đều sản xuất cả tranh thờ thần, phật, tiên, thánh thuộc nhiều tín ngưỡng, chủ yếu theo Đạo Phật, Đạo lão. Tranh thờ có mặt tại các Đền điện, trang miếu và dâng cúng giải hạn, thiêu hoá sau buổi hành lễ..Những tờ tranh ấy đã làm bừng sáng những căn nhà tối, thấp, mang theo tiếng cười vui đến với mọi nhà và nhất là như giúp mọi người cảm giao được với thần linh, yên tâm có cuộc sống bình an, thịnh vượng.
Thế nhưng, trong những năm nhân dân ta làm cách mạng dân tộc và dân chủ, một phần do hoàn cảnh chiến tranh, một phần do quan niệm chưa đầy đủ về vốn cổ, xem nó như tàn tích của chế độ cũ và gắn với mê tín dị đoan nên đã hạn chế việc bảo quản và in ấn tranh Chính trong giai đoạn này không những tranh dân gian mà còn nhiều sáng tác nghệ thuật khác của dân gian bị huỷ diệt như: điện thờ , cung, miếu..Chiến tranh không những ảnh hưởng đến đời sống vật chất mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của dân tộc Việt.
Tiếp đến thời kỳ xây dựng đất nước trong thời bình, nhà dân được "ngói hoá", đường dân được "bê tông hoá", không gian nội thất ấy hầu như không phù hợp với phần lớn tờ tranh cổ truyền. Hơn nữa với sự xâm nhập của tranh nước ngoài (nhất là tranh Thượng Hải và tranh Thái lan) tràn ngập thị trường, bên cạnh đó, tranh tết mới in ấn theo kiểu công nghiệp cũng được các nhà xuất bản tung vào thị trường. Chính vì thế mà tranh cổ truyền hầu như mất chỗ đứng trong nhân dân, chỉ được một số ít người chiếm ngắm ở bảo tàng, ở sưu tập của một số cá nhân. Song, chính loại tranh cổ truyền này lại là mặt hàng văn hoá xuất khẩu có giá trị kinh tế và tinh thần lớn. ở thời bao cấp, việc xuất khẩu tranh Tết do một cơ quan nhà nước độc quyền, còn việc sản xuất nằm trong hợp tác xã nông nghiệp, nghệ nhân làm tranh ăn công điểm. Ván in tranh bây giờ không phải của gia bảo, nó đã bị lãng quên nên hư hỏng, khi giao thời sang nền kinh tế thị trường thì một lẫn nữa bị mất mát. Ngày nay chỉ còn vài người còn giữ được ván in và theo nghề; mà điều đáng nói ở đây đối tượng chính là khách du lịch. Tranh thờ một thời gian phải náu mình, được in nhỏ gọt, riêng lẻ, duy chỉ có các tỉnh phía Nam là vẫn được bán rộng rãi ở các chợ.
Như vậy, tranh dân gian đã từng là nhu cầu tinh thần không thể thiếu của nhân dân, là một giá trị văn hoá lớn của dân tộc.Cho nên mỗi chúng ta cần tôn trọng và tìm mọi cách để bảo vệ, bảo tồn. Ngoài một số tranh thờ, tranh cổ, hầu hết tranh dân gian mới được in, vẽ mang giá trị nghệ thuật hơn giá trị cổ vật. Và như thế ván in tranh cần được giữ gìn ở trong nước để không làm thất thoát gia bảo, không làm mai một nghề làm tranh và không làm mất bí quyết nghề nghiệp..Tranh dân gian nên được coi là thứ hàng hoá, một thứ văn hoá phục vụ kinh tế, đồng nghĩa với việc xem tranh dân gian là thứ mặt hàng xuất khẩu được khuyến khíc và đưa vào thị hiếu thẩm mỹ của đời sống hôm nay.
*Những vùng sản xuất tranh: Tranh dân gian là loại tranh bình dân, thuộc về bình dân nên có ở khắp cả nước, nhưng nó lại là sản phẩm nghệ thuật nên chỉ có thể ra đời ở những vùng văn hoá phát triển mà quê gốc là một số trung tâm, như: Đông Hồ ở Bắc Ninh, tranh Hàng Trống ở Hà Nội, tranh Kim Hoàng ở Hà Tây, làng Sình ở Huế. Trong đó nổi trội hơn vẫn là làng tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống. Đây là hai làng tranh đã để lại nhiều bức tranh thể hiện đậm đà bản chất văn hoá dân tộc và cũng thể hiện đôi bàn tay nghệ thuật tài hoa, mộc mạc của các nghệ nhân dân gian yêu đời, yêu quê hương và cuộc sống.
II. Nội dung:
Khác với những tác phẩm hội hoạ ở các thời Nguyễn, thời Trần, thời nhà Mạc.., tranh dân gian thường đề cập đến sinh hoạt đời thường, kiến trúc chùa chiền, cung đình, vua chúa..Tranh dân gian sau này có sức hấp dẫn mãnh liệt bởi nội dung tranh đề cập tới những vấn đề thiết yếu của cuộc sống, phản ánh được tâm tư, hoài bão chính đáng mà bao đời họ hằng mong ước là có được cuộc sống ấm no hạnh phúc.

1. Tranh Đông Hồ:
Nơi sản xuất tập trung là làng Đông Hồ, Bắc Ninh. Đây là một làng quê nhỏ nằm ven sông Đuống và trên đường giao thông nối xứ Bắc với xứ Đông. Vùng đất này trù phú, nông nghiệp phát triển, có nhiều nghề thủ công, đời sống văn hoá cao, văn nhân đông, hội lễ nhiều và đặc sắc..tất cả đã tạo nên cái nôi, là "bà đỡ" cho một dòng tranh chân quê đậm đà chất dân tộc.
Tranh Đông Hồ nổi tiếng từ thế kỷ 16, phát triển đạt liên tục nhiều đời. Mỗi thời khắc chuẩn bị đón tết, tranh Đông Hồ được in ra hàng triệu bản, bán đi khắp nước, tranh được bán tại ngay làng hoặc bán mua tại nhà. Đặc biệt, tập nập là chợ tranh tập trung tại đình làng vào ngày chợ phiên trong tháng Chạp âm lịch. Chợ tranh thật sự là ngày hội tranh từng bừng náo nhiệt, rực rỡ sắc màu: tranh treo khắp đình làng, tranh treo kín cả sân đình. Gắn với sinh hoạt tết có tranh pháo - mã. Người làng Đông Hồ làm cả tranh hàng mã - hàng mã Đông Hồ. Mấy thế kỷ trước loại hàng này đã đi vào sử sách và 10 năm qua tưởng chừng mai một thì giờ đây đang phục hồi và phát triển đúng nhu cầu tâm linh của đông đảo nhân dân, cũng là một nghệ thuật tạo hình dân gian, bổ sung và hoàn chỉnh hơn cho tranh tết.
Nét đặc thù của tranh Đông Hồ là in nhiều màu, mỗi màu có một bản sắc riêng và in trên giấy điệp. Ván in gồm 2 loại: ván in nét đen bằng gõ thị, gỗ mỗ và lòng mực, đặc điểm là đanh mặt, thớ dai và mịn, giữ nét khắc bền, ít gãy sứt, ván in màu làm bằng gỗ giỗi hay vàng tâm, chất gỗ nhẹ xốp, ăn màu và nhả màu no đậm. Nghệ nhân "cắt ván" không dùng dao khắc kiểu Châu Âu mà dùng bộ mũi đục bằng thép cứng gọi là bộ ve gồm máy chục chiếc đủ loại đủ cỗ. Ván in khắc tranh hoàn thành được mỗi gia đình nghệ nhân bảo quản như vốn quý trong nhà, hoang gác khô ráo, lâu ngày lên nước đanh cứng, không sợ mối mọt.
Giấy để in tranh là loại giấy dó được sản xuất ở Đông Cao (Bắc Ninh) và vùng Bưởi (Hà Nội). Giấy mỏng, mịn và có vân óng ả như lụa lại dai và co dãn khẩm ướt. Để phát huy mặt tốt, khắc phục mặt yếu của giấy dó, nghệ nhân quýet lên giấy một lớp điệp làm tờ giấy dày, sáng trắng với những thớ sáng - tôí đan nhau song hành và lấp lánh ánh bạc. Giấy điệp là loại giấy dó có phủ lớp bột trắng mịn óng ánh nghiền từ võ điệp (một loại hến biển), quấy với hồ nếp loãng, quyết lên giấy bằng cái thép dẹt, rộng bản, kết bằng lá thông. Có khi còn được lượt thêm nước hoa hoè vàng chanh hay nước gỗ thông vàng cam đỏ, từ nền giấy đã toả ra vẻ vĩnh viễn trên nền giấy ấy.
Tranh Đông Hồ là loại tranh phổ biến nhất, đặc sắc nhất, đậm đà sắc dân gian, dân tộc. Các nghệ nhân đã thổi vào đó cả hồn dân tộc Việt mộc mạc, giản dị nhưng chứa chan sâu sắc. Loại tranh được quảng đại quần chúng yêu thích và đã được tuyển vào bộ tranh sưu tập.
Nội dung tranh Đông Hồ phong phú, đa dạng như tranh thờ, tranh chức tụng, tranh sinh hoạt, tranh minh hoạ văn hoá - lịch sử. Các bộ tranh như: Đánh ghen, Hứng dừa, Lợn đàn, Gà đàn, Gà đại cát, Bà Triệu, Đấu vật, Đám cưới chuột..v.v.
a) Tranh biểu hiện sự chúc tụng nhau và cầu mong có cuộc sống bình yên, luôn được may mắn, giàu có, ấm no hạnh phúc: Đại Cát,Tự vị chấn trạch, Tiến tìa tiến lộc, Vinh hoa phú quý..
Tranh tết xưa thường được gọi nôm là "tranh gà - lợn". Hình gà trống ngoài dấu hiệu xua đuổi ma tà còn là biểu trưng của sự thịnh vượng với 5 đức tính tốt của con người là: văn - võ - dũng - nhân - tín, do đó còn là lời chúc tụng đầu năm. Một loại tranh gà còn kèm theo các chữ "Vinh hoa", "Đại Cát", hình gà thư hùng còn nói rõ sự chúc mừng "đông con nhiều cháu", "no vợ đủ chồng". Đây chính là khát vọng của người lao động. Tâm tư ấy, khát khao ấy được thể hiện một cách rõ ràng, sâu sắc ở loạt tranh em bé, từ đường nét tranh đến lời dẫn tranh như: "Đào hiếu thiên xuân", "Lựu khai bách tử", nào là "Liêm sinh quý tử", "tử tôn vạn đại", rồi còn "Thất đồng", "Lục hợp đồng xuân"..
Một hướng chúc tụng khác là hướng vào người cao tuổi. Điển hình là tờ tranh Tam Đa với ba ông già được hưởng Phúc tổ tiên, Lộc vua ban và Thọ trời cho. Cả đến tranh cảnh vật cũng không thuần tuý miêu tả cảnh, miêu tả cái đẹp của thiên nhiên mà ẩn đằng sau đó là lời chúc mừng hạnh phúc lớn lao cho mọi người, cho cả dân tộc, chẳng hạn như tranh "Công múa" thì chữ đề trên tranh đã nói rõ mong ước về một xã hội, một quốc gia thịnh trị, thiên hạ thái bình.
Bức tranh "Gà Đại Cát" (Tranh Đông Hồ):
Ngày tết, đầu xuân, nhân dân ta có tục dán tranh ở cửa để trấn ma quỷ vì tiếng gà gáy xua tan đêm tối, khiến ma quỷ phải tránh xa (theo quan niệm dân gian cũ). Xuất phát từ quan niệm ấy, từ nguyện vọng một cuộc sống bình an và hạnh phúc, các nghệ nhân Đông Hồ đã vẽ bức tranh "Gà Đại cát". Tranh vẽ một chú gà trống oai vệ, hùng dũng tượng trưng cho sự thịnh vượng và 5 đức tính: văn - võ - dũng - nhân - tín.

Trong đó cái mào đỏ tựa như cánh chuồn trạng nguyện là "văn", chân gà có cựa sắt nhọn như kiếm để đấu chọi là "võ", thấy địch thù dũng cảm, không sợ và đấu chọi đến cùng là "Dũng", kiếm được mồi cùng gọi nhau ăn là "Nhân", hàng ngày gà gáy báo canh không bao giờ sai là "Tín". Tranh được in trên giấy dó quyét màu điệp, bố cục hài hoà thuận mắt. Hình vẻ và màu sắc đơn giản, có tính cách điệu cao, đường nét to chắc khoẻ nhưng không bị khô cứng, chữ trong tranh vừa minh hoạ cho chủ đề, vừa khiến bố cục thêm chặt chẽ và sinh động.
b) Tranh cỗ vũ, ca ngợi lao động sản xuất: tiêu biểu là tranh Tát nước, Cày cấy chăn nuôi, Gà lợn.. Cảnh gà mái túc mồi gọi đàn con dưới nắng ấm, lợn nái với đàn con bụ bẫm ủn ỉn bên hông..Tất cả những cảnh vật sinh động ấy đã nói lên mong ước về vụ mùa bội thu, chăn nuôi gia súc thuận lợi.
Trước hết là tranh dân gian phản ánh những trò vui xuân như: "Nghênh Long, phụng lân", bộ tranh về thời tiết 4 mùa gọi là "Tứ quý" – mỗi mùa được gợi lên bằng một thứ hoa quý với một con vật đẹp...
Bộ tranh "Tứ dân" miêu tả 4 lớp người có thân phận thấp kém là ngư – tiều – canh – mục, trong đó người nông dân được miêu tả khá kỹ. Tờ tranh "Công việc nhà nông" mang tính liên hoàn dựng lại quá trình lao động từ cày cấy cho đến khi xay thóc và giã gạo. Những tranh tiêu biểu: Cảnh chợ quê, Ngày hội, Rước rồng, đánh đu, Đánh vật..Đặc sắc nhất trong loại tranh sinh hoạt là là những hoạ cảnh hoặc trực tiếp lấy con người kể chuyện hoặc thông qua những con vật quen thuộc, tiêu biểu như đánh ghen, Hứng dừa, Chuột Đõ cao cưới vợ, Trường học cóc..Tranh "Đánh ghen" chấp nhận tình trạng một chồng hai vợ, hai bà vợ có thể nổi "máu Hoạn Thư" nhưng cách giải quyết êm thấm nhất vẫn là "Thôi thôi nuốt giận làm lành, Chi điều sinh sự nhục mình, nhục ta".
* Tranh "Hứng dừa" (Tranh Đông Hồ):
Cũng cùng phong cách điển hình: rõ ràng, dứt khoát nhưng được miêu tả bằng khía cạnh trào lộng, vui vẻ, hóm hỉnh, bên thế đứng vững chãi của cây dừa và động tác hái dừa uyển chuyển của nhân vật làm cho khung cảnh sinh động và hồn nhiên, mộc mạc. Lại thêm lời thơ trừ tình, dí dỏm "Khen ai khéo dựng lên dừa, Đấy trèo đây hứng cho vừa lòng nhau". Hình ảnh vàlời thơ quyện chặt lấy nhau thể hiện tình cảm lứa đôi. Vị
trí của dòng chữ chú thích đã tạo nên một bố cục chặt chẽ, với mảng màu đơn giản, sắc thái ấm áp, ý nhị đã làm nổi bật tình cảm sôi nổi, chân thực của tuổi trẻ vốn không bị gò bó, không bị trói buộc trong khuôn khổ, rường cột của lễ giáo phong kiến.
* Tranh "Đấu vật" (Tranh Đông Hồ):
Bức tranh có bố cục cân xứng, thoáng hoạt, màu sắc đơn giản. Hình ảnh các đôi vật với vóc dáng lực lưỡng đang đấu trí, đấu sức quyết liệt, tìm các thế vật hiếm để giật ngã đối phương, quyết giành phần thắng về mình đã mô tả được rõ chủ đề của bức tranh.
Trên nền đỏ tươi thắm của nền tranh trắng óng ả của giấy điệp, trên thân hình các đô vật được viền, những nét đen chắc, khoẻ làm tôn vẻ đẹp của tinh thần thượng võ và gợi lên được không khí tranh tài trong ngày xuân, trong ngày hội vật truyền thống của dân tộc. Cạnh đó hai đô vật đang ngồi, ôm đùi thu trước ngực, với ánh mắt, nét mặt chăm chú theo dõi cuộc đua tài, tiết trời mùa xuân còn se lạnh, phía trên xâu tiền thưởng treo 2 bên như đang treo trước sân đình..Chỉ một vài chi tiết đó đã tạo được một khoảng không gian và không khí của ngày một cách tài tình và độc đáo.
* Tranh "Đám cưới chuột" (Tranh Đông Hồ):
Đây là bức tranh đặc sắc nhất trong loại tranh sinh hoạt. Bức tranh này thuộc loại đề tài trào lộng, châm biếm, phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội. Bức tranh còn có tên khác là "Trạng chuột vinh quy", diễn tả đám rước rất vui với kèn, trống, cờ quạt, mũ măng, cân đai chỉnh tề, "chuột anh" cưỡi ngựa hồng đi trước, "chuột nàng" ngồi kiệu theo sau. Đám rước diễn ra trong không khí trang nghiêm nhưng ẩn đằng sau đó là sự lo sợ, thấp thỏm về Mèo. Muốn được yên thân, họ nhà chuột phải cống nạp cho mèo lễ vật hậu hĩnh, phù hợp với sở thích của Mèo. Phải khẳng định đây là một bức tranh đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật trong dòng tranh Đông Hồ. Các nghệ nhân dân gian đã thông qua những nét vẽ tinh tế, mộc mạc đã kích nạn tham nhũng, ức hiếp dân chúng của bọn quan lại, của giai tầng thống trị trong xã hội lúc bấy giờ.
Cách sắp xếp bố cục theo hàng ngang dàn đều. Hình thức diễn tả hợp lý, hóm hỉnh tạo cho bức tranh sự hài hước và sinh động.
* Tranh "Đánh ghen" (Tranh Đông Hồ):
Tranh mang hình và mảng trống rất cân đối, nhịp nhàng, tranh không diễn tả chiều sâu không gian và thời gian xẩy ra sự việc. Nét điển hình chắc khoẻ, rõ ràng, dứt khoát miêu tả được tính cách nhân vật và đã khắc hoạ được thái độ ghen tuông quyết liệt của người vợ cả. Dáng vẻ chanh chua, vênh váo của người vợ lẽ được chồng yêu và chân dung điệu bộ của anh
chàng đa thê muốn giàn hoà mâu thuẫn với triết lý ích kỷ "Thôi thôi nuốt giận làm lành, chi điều sinh sự nhục mình, nhục ta".

* Tranh "Ngồi nghỉ giữa buổi trưa" (Trang Đông Hồ):
Đông Hồ còn có những bức tranh thể hiện cuộc sống vất vả, một nắng hai sương trên đồng ruộng, suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho giời của người lao động bình dân. Tuy vậy, ẩn đằng sau vẻ vất vả, cực nhọc ấy người ta vẫn cảm nhận được tư thế đĩnh đạc, thư thái, vẻ tươi vui yêu đời, yêu cuộc sống của những ngưòi lao động. Điều đó được phản ánh rất rõ trong bức tranh "Ngồi nghỉ giữa buổi trưa".
Ngoài ra, trong làng tranh dân gian nổi tiếng này còn có những bức tranh xuất sắc như: Bức tranh miêu tả thầy đồ cóc chiễm trệ trên sập bắt học trò hầu điếu đóm, đun nước; tranh miêu tả mèo ra hạch sách trong cuộc hôn nhân và bức tranh miêu tả cảnh đánh ghen, đặc tả cảnh gia đình đa thê ở nông thôn..Tất cả những bức tranh trên đuề có mục đích phê phán những hủ tục, thói hư tật xấu của xã hội phong kiến đương thời.
c. Đề tài tranh minh hoạ văn học - lịch sử:
Anh hùng dân tộc và những nhân vật có công với dân với nước luôn là đề tài quen thuộc trong nhiều tác phẩm nghệ thuật từ văn học, điêu khắc, âm nhạc ..đến hội hoạ. Trong tranh Đông Hồ cũng vậy. Những bức tranh ấy ngụ ý cỗ vũ cho lòng yêu nước, tinh thần hy sinh vì đại nghĩa. Có những bức tranh đề tài lịch sử miêu tả khí phách hiên ngang, dũng mãnh trước quân thù, lập nên những chiến công hiển hách của các vị anh hùng: liệt nữ hai Bà Trưng, Bà Triệu rực rỡ trên mình voi, Ngô Quyền chiến thằng quân Hán, Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nguyên, Lê Lợi thắng quân Minh, Quang Trung thắng quân Thanh. Thậm chí những sự kiện lịch sử hiện đại cũng được đưa vào tranh mới.
Ngoài ra văn học cổ trưyền Việt Nam có nhiều chuyện thơ Nôm được nhân dân yêu thích, cho dù phần đông người lao động không biết chữ nhưng họ vẫn hiểu được nội dung và thuộc lòng nhiều đoạn lý thú. Những đoạn thơ lý thú ấy thường được các nghệ nhân dân gian Đông Hồ bằng trí tưởng tượng phong phú, bằng nét vẽ tài tình vẽ thành những bức tranh đẹp. Có truyện được vẽ liên hoàn thành nhiều cảnh trên một bức tranh, thậm chí bốn bức hợp thành một bộ như: Truyện Kiều, Thạch Sanh, Phạm Công - Cúc Hoa, hay Thánh Gióng. Bên cạnh đó, một số truyện được trích đoạn một vài cảnh để vẽ thành tranh như: truyện Trê - Cóc, Bích câu kỳ ngộ, Nhị độ mai.. Thậm chí một vài tác phẩm văn học nổi tiếng của Trung quốc mà nội dung phổ cập trong nhân dân ta, các nghệ nhân cũng vễ thành tranh ở một số cảnh, một số hồi như: Tam Quốc chí, Tây du ký, Đông chu liệt quốc..Chính nhờ những bức tranh dân gian này mà mọi người có thêm dịp kể và truyền cho nhan những thành tựu văn học của dân tộc và nhân loại. Hơn hết, việc vẽ tranh về những cảnh trong các tác phẩm văn học đã thể lòng yêu chuộng văn thơ, yêu chuộng cái đẹp, cái thiện, và những bức tranh dân gian ấy là sự thể hiện những tình cảm ấy một cách mộc mạc, giản dị nhưng sâu sắc nhất của người dân lao động xứ Bắc này. ẩn sau các bức tranh theo truyền thuyết huyền thoại như: Thạch Sanh, Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân..còn là quan niệm, là khát khao chân lý ở đời: cái Thiện thắng cái ác, nhân nghĩa thắng hung tàn.
(Tranh Bà Triệu và Thánh Gióng)
2. Tranh Hàng Trống
Tranh Hàng Trống có từ rất sớm.Trước Cách mạng tháng 8 – 1945 tranh này đã được sản xuất và bày bán tập trung ở các phố Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng Hòm.. nhưng nhiều nhất vẫn là ở phố Hàng Trống. Nơi đây vốn từng nổi tiếng về những ngành thủ công mỹ nghệ và các xưởng in tranh.
Hàng Trống từng là trung tâm văn hoá và điểm hội tụ giao lưu thương mại nên có điều kiện tiếp xúc với tranh nước ngoài, nhất là tranh Trung Quốc. Đối tượng phục vụ của loại tranh này là thị dân và tầng lớp trung lưu ở Kinh thành. Vì thế, các nghệ nhân nhiều khi vẽ theo yêu cầu, theo thị hiếu người xem tranh. Tranh Hàng Trống đi sâu vào những bộ tứ bình về người đẹp (Tố nữ) và cảnh đẹp (Tứ quý), minh hoạ các tác phẩm văn học lớn và đặc biệt đi sâu vào mảng tranh thờ ở các miếu điện, nhất là khai thác các nhân vật trong Đạo Mậu và các bản địa (Tam toà, Tứ phủ..). Đây là mảng tranh đậm đà nhất của Hàng Trống, vì vậy được bày bán quanh năm và nhộn nhịp vào các dịp lễ tết.
Khác hẳn với tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống thường in trên giấy khổ lớn, với nét đặc trưng là chỉ khắc in một bản nét đen, còn lại toàn bộ màu sắc tô bằng tay, ưu dùng phép vờn đậm nhạt của màu phẩm nước tươi tắn, bằng những nhấn bút lông mềm mại lượn theo đường viền in sẫn. Các tranh có tiếng ở đất "Kẻ chợ" đều ghi xuất xứ, có khi kèm cả tên nghệ nhân, tạo uy tín với người chơi tranh.
Ván in tranh ghép khổ to và đầy đặn, khắc cả 2 mặt bằng mũi chàng, mũi đục, mũi tỉa tra cán vào dao khắc bénngọt, đảm bảo những đường nét thanh mãnh tinh vi, mềm mại. Kỷ thuật in cũng khác biệt: trong khi bản in tranh Đông Hồ nhỏ nhẹ, có "tay cò" để cầm phía lưng ấn xuống mặt giấy, thì ván in tranh Hàng Trống to, nặng, phải đặt cẩn thận từ giấy lên khuôn in đã chà mực, rồi xoa đều bằng xơ mướp không lên mặt sau. Ván in tranh Hàng Trống cổ nhất còn giữ được, có khắc kèm cả niên đại "năm Minh Mạng thứ tư". Theo Dương lịch là năm 1823, tức đã gần 200 năm tuổi. Có nhiều khuôn khổ tranh, nhiều kích thước khác nhau. Cách sắp xếp bố cục theo lối thuận mắt, đường nét mảnh nhỏ, trau chuốt, rậm rạp, nhiều khi chen lẫn trong màu sắc thể hiện sự công phu và tính sáng tạo.
a. Tranh thờ:
Đây là loại tranh tiêu biểu nhất tranh Hàng Trống, chiếm một tỷ lệ lớn. Nhiều chùa, chiền, đền điện, phủ.. cũng có ván in nhằm trừ tà, yểm quỷ. Các bộ tranh này thường được dán ở cửa nhà, hy vọng sẽ mang cho chủ nhà sự thịnh vượng, an khang, giữ yên lành cho gia chủ..Một số ngôi chùa có bộ tranh cổ Thập diện Diêm Vương: khuyên mọi người ăn ở hiền lành, tránh điều bạc ác. Dưới bàn thờ Mẫu là hạ bàn thường có các tranh Ngũ Hỗ, hay Hổ xám trấn giũa các phương.
* Tranh "Phật bà quan âm": Bức tranh thuộc đề tài tôn giáo, thờ cúng. Ngoài yếu tố tín ngưỡng, bức tranh còn có ý nghĩa khuyên răn mọi người nên làm điều thiện theo thuyết của đạo Phật. Bức tranh này lấy đề tài trong sự tích của Phật giáo. Phật bà ngự trên toà sen, toả hào quang rực rỡ với dáng điệu mềm mại, khuôn mặt hiền từ, phúc hậu. Đứng chầu bên bà là Kim Đồng và Ngọc Nữ.
Tranh vẽ trên giấy, tô màu theo lối "Cảm tranh" truyền thống đã tạo được chiều sâu bởi các độ đậm nhạt. Bố cục tranh cân đối, trang nghiêm treo quy tắc nhà Phật. Nhờ cách diễn tả mây, toà sen và bối cảnh xung quanh một cách tài tình khiến tranh không bị khô cứng, ngược lại nhịp nhàng, tình cảm.
* Tranh "Ngũ Hổ": Nổi tiếng bậc nhất, từng có mặt khắp các đền miếu, am thờ trong cả nước. Trải qua hàng thế kỷ, năm sắc lông hổ tượng trưng cho năm phương trời đất, năm chất và năm tiết mùa.
Thanh Hổ: (xanh) tượng trưng cho Phương Đông, hành Mộc, thời Xuân.
Xích Hổ: (đỏ) tượng trưng Phương Nam, hành Hoả, thời Hạ.
Bạch hổ: (trắng) tượng trưng phương Tây, hành Kim, thời Thu.
Hoàng Hổ (Vàng) tượng trưng phương Trung Cực và Hành Thổ.
Bức tranh có bố cục, màu sắc, hình tượng (đứng, ngồi) của các thần hổ rất phong phú, mỗi vị có dáng vẻ uy nghi khác nhau, mỗi vị có một sức mạnh mãnh liệt toả ra từ đôi mắt, nét mặt, lông và ngồi lên khí thế như thực của vị chúa sơn lâm linh thiêng đầy uy nghi.
ở các bức tranh thờ, nếu tước bỏ phần tín ngưỡng, dùng thuyết giáo luân hồi khuyên người ta làm điều thiện, tránh điều ác để khi chết đi, phần hồn được lên cõi Niết Bàn, không phải giam cầm ở nơi địa ngục thì đây cũng là những sản phẩm nghệ thuật có giá trị trong kho tàng tranh dân tộc.
b. Tranh sinh hoạt, vui chơi:
* Tranh ..Chợ quê..:
Hình ảnh trong tranh là những gì gần gũi, quen thuộc với cuộc sống của người dân quê. Cảnh họp chợ ở một vùng quê sầm uất, nhộn nhịp. Dưới bóng cây đa cổ thụ râm mát dãy quán chợ đủ các mặt hàng, ngành nghề, những người ở các tầng lớp khác nhau tập trung không khác gì một xã hội thu nhỏ.
Đường nét tinh tế được vẻ kỹ càng, mảnh nhỏ, diễn tả có thần thái và sắc màu tươi nguyên của phẩm nhuộm đã tạo nên trạng thái động của bức tranh, tiêu biểu cho nghệ thuật của dòng tranh Hàng Trống.
3. Dòng tranh khác:
a. Tranh Kim Hoàng
:
Thuộc vùng ven đô - trung gian giữa dòng tranh của nông dân và của thị dân. Kim Hoàng nay thuộc huyện Hoài Đức - Hà Tây. Nghề làm tranh ở đây đang bị mai một dần. Sau trận vỡ đê Liên Mạc năm 1915 và đến cách mạng tháng 8 – 1945 thì thôi hẳn. Nhưng 10 năm trở lại đây, người ta đã tìm thấy một số ván in của dòng tranh này. Nhiều người kể lại đầy đủ các đề tài tranh, các kỷ thuật in ấn và việc bán tranh.
Tranh Kim Hoàng chuyên in và vẽ trên giấy Hồng điều hoặc giấy tàu vang nhập của nước ngoài. Vì thế nên được gọi là tranh đô (để phân biệt với các dòng tranh khác gọi là tranh trắng). Dòng tranh này chỉ có nét và mảng màu đen được in ván gỗ, sau đó dựa vào mảng phân hình mà tô vẽ các màu khác nhau, nếu cần thì sau cùng in lại nét đen cho hình hiện rõ. Trên nền giấy đỏ, các hình trong tranh còn được to trong số các màu: đen, trắng, xanh lơ, xanh lá cây, chàm..Các màu trên (trừ màu chàm - phải tự chế biến lấy) đều bán sẵn, trong đó màu tắng là phấn viết bảng, màu đen là màu mực tàu.
Tranh Kim Hoàng vẽ tay nên tốn công, số lượng khống nhiều. Chủ yếu là tranh tết, đề tài tương tự như tranh Đông Hồ, tập trung phục vụ tín ngưỡng và thoã mãn những ước vọng đầu xuân. Loại tranh này còn được bôi màu bằng từng nhát mộc mạc nhưng hoạt bát, chấm phá rất sinh động.
b. Tranh Làng Sình
Lành Sình thuộc huyện Hương Phú, cách cố đô Huế 7 km. Tranh làng Sình cho đến nay vẫn được bày bán ở các chợ ở Huế. Làng Sình chủ yếu quanh năm vẽ tranh thờ, gốc ở làng Sình nhưng nay đã chuyển sang cho người làm đồ mã ở Huế. Một nét riêng biệt trong việc thưởng thức tranh Làng Sình là trừ bức ..Tượng Bà.. là được treo trong trang thờ để cả năm, sang năm mới thay tranh mới, còn các bức tranh khác cúng xong người ta đốt đi. Vì đời sống của tờ tranh làng Sình quá ngắn ngủi như vậy nên thời gian, công sức, sự gia công đầu tư cũng đơn giản: tranh được in nét đen, nhiều bức in xong là hoàn chỉnh, một số bức khi in xong được điểm thêm vài vạch màu. Mặc dù vẽ thêm nhiều cùng không bao giờ kín hình. Do tô màu bằng tay nên có sự thay đổi theo hứng.
Người dân xung quanh Huế, mỗi khi gặp hạn, thường mua tranh tương ứng của Làng Sình về cúng để thế mạng mình, sau đó đốt đi. Vì vậy, tranh Làng Sình là một dạng đồ thế, được in và vẽ nhanh nhưng hoạt, trực tiếp theo tình cảm người vẽ.
c. Tranh Đồ Thế Nam Bộ : Cùng tính chất như tranh Làng Sình, nhưng tranh Đồ Thế Nam Bộ là những bức tranh nhỏ, chỉ in nét đen trên nền giấy đỏ, đường nét mộc mạc, tạo hình đơn giản, một tranh có thể gồm một hoặc nhiều hình. Đề tài là các vị thần, tập trung vào các nữ thần và các đồ dùng của Thần, thêm vào đó là các con vật của một giáp. Tranh chủ yếu được mua về để cúng giải hạn hoặc cúng cho người bệnh, cúng xong thì đốt.
Như vậy, 5 trung tâm làm tranh dân gian Việt Nam được hình thành trong cả nước - Bắc, Trung, Nam. Mỗi làng tranh đã để lại những giá trị văn hoá quý báu, thổi hồn dân tộc Việt vào những bức tranh. Song phải khẳng định rằng giá trị nghệ thuật nổi trội vẫn thuộc về những làng tranh ở đất Bắc cổ kính. Người Việt chúng ta và người nước ngoài biết về một giá trị văn hoá dân tộc – tranh dân gian Việt Nam - chủ yếu vẫn là qua 2 dòng tranh chính: Đông Hồ và Hàng Trống.
III. Nghệ thuật tranh dân gian
Tranh dân gian có lịch sử lâu dài và thực sự là vốn báu vật tạo hình được các thế hệ, xưa và nay, đều yêu thích. Nhưng, tranh chỉ có đến với độc giả bằng nội dung thì sức sống của tranh không được lâu dài và e rằng khi đó các loại hình nghệ thuật khác sẽ chiếm ưu thế hơn tranh, đặc biệt là khi xã hội thay đổi. Yếu tố quan trọng không kém, tạo nên sức thu hút và nét riêng biệt mãnh liệt cho tranh đó là giá trị nghệ thuật. Giá trị này biểu hiện ở bố cục, đường nét, ở các gam màu, ở quan niệm tỷ lệ giữa các hình.
Ngày nay, chiêm ngưỡng các bức tranh của 2 dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống, chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp truyền thống hoà đồng trong các tác phẩm dân gian, thấy được tính sáng tạo nghệ thuật độc đáo, phong phú của các nghệ nhân đất Việt.
1. Bố cục:
Tranh thường được bố cục từ cái nhìn tầm cao và ước lượng về không gian, thời gian: không chú ý đến chiều sâu của không gian và thời gian, không chú ý đến chiều sâu của khung cảnh, chỉ nêu lên một sự việc hay một vấn đề cụ thể. Cách phân phối mảng đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu. Cảnh trọng tâm bao giờ cũng được nêu bật về hình và màu làm cho người xem tranh dễ cảm nhận được ngay chủ đề.
Tranh dân gian xây dựng hình ảnh không phụ thuộc vào mẫu trong tự nhiên mà cốt gây ấn tượng mạnh theo yêu cầu của các chủ đề. Vì thế, ánh sáng, không gian, con người và cảnh vật đều được ước lệ. Tờ tranh điệp với nền màu trắng hay vàng hoặc đỏ thì đều thể hiện không gian rực sáng trong trẻo và rộng rãi, thoáng đãng. Cái không gian ước lệ ấy đòi hỏi các hình tượng trên đó cũng phải ước lệ để làm sao gợi được nhiều nhất. Vì thế, hình được thể hiện nhìn từ nhiều góc độ, từ nhiều khoảng cách để phô diễn đầy đủ nhất. Con lợn muốn rõ nhất phải ở thế nhìn ngang nhưng mõm lại như nhìn tứ phía trước; còn trong cảnh hứng dừa thì cây dừa lại được thu nhỏ để tương ứng với người hứng và người trèo; chuột tiến sĩ cưỡi con ngựa chỉ lớn nhỉnh hơn chuột một tí mà thôi (trong cảnh chuột vinh quy). Tất cả hình ảnh đều được choán ra mặt tranh, chúng không che khuất nhau mà cùng phô bày rõ ràng.
Nếu theo ngoài đời, cảnh phải diễn ra theo một hàng ngang dài, tỷ lệ dài rộng tờ tranh sẽ quá chênh lệch thì nghệ nhân đã sáng tạo bằng cách cắt đôi rồi chồng lên nhau như bức ..Chuột đỗ cao cưới vợ...
Từng hình trong tranh có khi được cường điệu đến ngoa ngoắt song đều thu về những hình cơ bản. Bé ôm gà như hình qủa trứng, con lợn như hình chữ nhật, các cặp đô vật trong tranh ..Đánh vật.. lại là chỗ hình tam giác, chỗ hình thang, có chỗ lại hình tròn. Các nhân vật trong tranh ..Hứng dừa.. và ..Đánh ghen.. vừa hài hước vừa táo tợn.
Các thế giới trong tranh dân gian đủ 3 tầng: Tầng trời, tầng trần và tầng đất. Chỉ cần vài chi tiết là gợi ra không gian cần cho sự việc xảy ra. Tsình trạng này rõ nhất ở tranh liên hoàn về Thạch Sanh.
(Tranh Thạch Sanh)
Với bố cục ấy, trừ tranh thờ thì các nhân vật thần, Phật được vẽ to ở giữa, các nhân vật phụ nhỏ hơn và ở 2 bên, các ngưòi thường dân và sinh vật lại nhỏ hơn nữa và ở dưới. Tỷ lệ này phụ thuộc vào quan hệ xã hội, tuỳ theo địa vị của từng nhân vật để phóng to hay thu nhỏ. Trái lại ở những tờ tranh tết thông thường, các nhân vật và các cảnh vật dù ngoài đời hết sức chênh lệch nhau nhưng với quan niệm bình đẳng, tất cả đều được vẽ lên mặt tranh với một độ lớn tương đương nhau. Lối viễn cận phản ánh tư tưởng bình quân của nông dân, tất cả đều được tôn trọng.
2. Đường nét:
Tranh dân gian dựng hình chủ yếu bằng đường nét được in, có khi in xong là bức tranh hoàn chỉnh, có nhièu tranh lại chỉ tô màu cho tươi và động sau khi in nét đen. Cả những tranh in màu kín thì nét được in sau nên rất rõ, nét bao lấy các mảng màu khiến mảng nào cũng tách bạch rõ ràng, nét tuỳ từng dòng tranh mà có sự khác nhau. Nét tranh Đông Hồ đậm chắc ít chi tiết vụn, nét tranh Hàng Trống mảnh mai, có phần tham lam nên hơi rối.
Cách sử dụng màu sắc và điển hình dưới bàn tay điêu luyện, các nghệ nhân đã tạo nên sự nhất quán giữa hình và màu, giữa nội dung và hình thức diễn tả tình cảm, tình cách nhân vật như tranh ..Đánh vật.., ..Hứng dừa.., ..Đánh ghen....với những nét khắc viền đậm dứt khoát, khoẻ nhưng không thô cứng, chắc nhưng mềm mại, thanh thoát của tranh Đông Hồ; nét viền thanh thanh, uyển chuyển, nhẹ nhàng của tranh Hàng Trống như tranh ..Công chúa.., ..Tam Đa....và những hình ảnh của xã hội đương thời được tái tạo rất điển hình bằng một phonh cách truyền thống càng làm tăng vẻ đẹp của tranh.
3. Màu sắc:
Thuật sử dụng màu sắc trong tranh dân gian rất tài tình, có thể nói đã đạt đến chuẩn mực tuyệt mỹ. Mỗi tranh mỗi vẻ. Những tranh tô màu phẩm xanh, đỏ, vàng..thì có những hoà sắc tương phản rực rỡ mà không sặc sỡ, loè loẹt.
Dù màu thuốc cái ở tranh điệp hay màu hoá chất ở nhiều dòng tranh khác thì cũng đều đằm thắm, chỉ rất ít màu, thiên về ánh sáng, hầu như không cần đến màu ghi trung gian. Những màu ấy dù in hay vẽ đều khiêm tốn, chỉ vài màu nhưng do cách chế biến, kỷ thuật in chồng, in lệch lại tạo thêm màu cổ truyền gọi là ..thuốc cái.. như son đỏ thắm được ghiền ra từ thứ đất đồi.
Màu đỏ vàng được chiết từ gỗ cây vang.
Màu vàng ấm lấy từ hoè hay dành dành.
Màu xanh chàm lấy từ cây chàm.
Màu đen xốp được nghêin từ than lá tre hoặc than rơm.
Màu trắng óng ánh được tạo ra từ vỏ con điệp.
Còn tranh hàng Trống là để phục vụ cho tầng lớp trung lưu và thị dân nên đường nét trong tranh thường mảnh mai trau chuốt, tinh tế; nghệ thuật thì công phu và sáng tạo. Màu thường dùng là màu phẩm nhuộm nguyên chất, song nhờ độ đậm nhạt của nét bút đã tạo được sự hài hoà, lung linh và chiều sâu của bức tranh. Những màu sắc cổ truyền đó cùng với chất mượt mà như lụa của giấy dó tưởng như ..vô hồn.. đã tạo nên những tác phẩm có hoà sắc tươi mát hoặc đậm đà ấm áp và tinh tế đến mức thần kỳ, tạo nên cái ..có hồn.. của tranh vẻ đẹp ấy còn nguyên vẹn cho đến nay và là nền tảng cho hoạt động nghiên cứu để phát triển nền nghệ thuật dân tộc.
Tranh dân gian nói chung, tranh Đông Hồ và tranh hàng Trống nói riêng rất chú trọng đến bố cục, đường nét và màu sắc. Đường nét được xem là ..dáng.. màu sắc là ..men.., bố cục theo lối ước lệ, thuận mắt. Ngoài ra, chữ hoặc câu thơ vừa là minh hoạ, vừa tạo cho tranh có bố cục ổn định, chặt chẽ.
IV. Kết luận
Tranh dân gian đã chứng tỏ sự thống nhất, hoàn chỉnh trong nếp nghĩ và lao động của một dân tộc và tính sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động, vì thế mang bản sắc dân tộc đậm đà.
Tuy nhiên, tranh dân gian cũng như các loại hình nghệ thuật dân gian khác có nguồn gốc bản địa, ăn sâu trong tâm hồn của người dân nhưng cần có sự giao lưu văn hoá của khu vực và thế giới thì mới học tập thêm để nâng cao. Trong đó tranh dân gian Trung Quốc là được các nghệ nhân Việt Nam tiếp xúc nhiều hơn cả.
Với nghệ thuật độc đáo của tranh dân gian đã để lại kho tàng mỹ thuật dân tộc thêm một giá trị văn hoá tiêu biểu. Đây là loại hình nghệ thụât đích thực, nhiều người vẫn luôn đam mê khám phá và khai thác cái đẹp ấy. Từ màu sắc cổ truyền đến chất mượt mà giấy lụa.. tạo nên những tác phẩm tinh tế đến diệu kỳ. Vẻ đẹp ấy còn nguyên đến nay và là nền tảng cho việc nghiên cứu, phát triển loại hình nghệ thuật dân tộc này. Điều đặc biệt là tranh dân gian phục vụ cho đông đảo tầng lớp bình dân để trang hoàng nhà cửa trong những ngày vui, ngày hội và trong mỗi dịp Tết đến, xuân về.
Ngày nay, tranh dân gian không chỉ có giá trị lịch sử mà còn hàm chứa đầy đủ giá trị của một loại hình nghệ thuật đích thực. Trong điều kiện ..nhà đã cao, cửa đã rộng.., tranh dân gian cần được đổi mới cách chơi sang trọng như một thứ đồ hoạ đặc biệt mà mọi người dùng để làm đẹp ngôi nhà của mình. Các hoạ sỹ khai thác tranh dân gian ở các chất liệu và quan điểm thẩm mỹ, cho nó thăng hoa vào tác phẩm thì hồn dân tộc và chất thời đại sẽ có sức sống vĩnh hằng.

3 nhận xét:

Capy89 nói...

Chào bạn, tôi nghĩ bài này nên có ảnh minh họa thì sẽ có giá trị hơn!anyway, thank you for your post!

Laclongquan nói...

Có tranh cũng tốt. Nhưng không tranh thì hai bài ở đây của bạn cũng đã khá là hữu ích với tôi. Với tư cách là người ngoại đạo, tôi thấy chúng khá là bổ ích và nhiều thông tin rồi.
Thanks. Hy vọng bạn sẽ viết tiếp và nhiều hơn nữa.

Thu Thuỷ nói...

Cảm on bài viết của bạn, bài viết rất hữu ích !